Savills: Hà Nội, TP HCM thiếu căn hộ dịch vụ cho người nước ngoài

Bà Đỗ Thị Thu Hằng – Phó giám đốc Bộ phận Nghiên cứu, Savills Hà Nội vừa có những đánh giá về thực trạng và cơ hội của thị trường căn hộ dịch vụ tại Việt Nam. Chuyên gia này chỉ ra, công suất cho thuê của phân khúc này đang rất tốt, trung bình đạt 88% tại Hà Nội và trên 80% tại TP HCM tính đến quý II. Bà cũng nhận định, đây là phân khúc nhiều tiềm năng trong bối cảnh vốn đầu tư FDI được đổ mạnh vào Việt Nam. 

Bà định nghĩa, căn hộ dịch vụ là một phân khúc bất động sản hướng đến đối tượng khách thuê đa phần là người nước ngoài làm việc ở Việt Nam, khách du lịch – công tác dài ngày và một lượng nhỏ là khách du lịch ngắn ngày. Khác với khách sạn, sản phẩm căn hộ dịch vụ cung cấp không gian rộng rãi và những tiện ích sẵn sàng cho việc sinh hoạt lâu dài của khách thuê như bếp, máy giặt, không gian làm việc, phòng ngủ cho khách.

Khác với căn hộ để bán hay biệt thự cho thuê, sản phẩm căn hộ dịch vụ cung cấp đầy đủ nội thất đi kèm và được quản lý điều hành chuyên nghiệp với những dịch vụ dọn phòng, ăn uống 24/24. Một số dự án chuyên biệt còn phục vụ cho một nhóm khách thuê nhất định. Theo bà Hằng, đây cũng là điểm hấp dẫn của một số dự án căn hộ dịch vụ với người nước ngoài làm việc ở các công ty FDI, đại sứ quán, khu công nghiệp, ngân hàng quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài khác tại Việt Nam. 

Một dự án căn hộ dịch vụ tại TP HCM. Ảnh: Đơn vị quản lý

Một dự án căn hộ dịch vụ tại TP HCM. Ảnh: Đơn vị quản lý

Theo thống kê từ Focus Economics, từ năm 2013, Việt Nam nằm trong top 4 các nước Đông Nam Á nhận nguồn vốn FDI đăng ký cao nhất. Các doanh nghiệp FDI chính là những nhóm khách hàng lớn của phân khúc căn hộ dịch vụ.

Tuy nhiên, theo bà Hằng, nguồn cung căn hộ dịch vụ tại Việt Nam hiện nay chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của thị trường này. Các dự án căn hộ dịch vụ chất lượng chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP HCM… trong khi nhu cầu cho sản phẩm này trải khắp các khu công nghiệp trên cả nước, bao gồm cả các tỉnh lân cận những thành phố lớn như Bình Dương, Long An, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hà Nam… 

Theo bà Hằng, tính đến cuối năm 2017, tổng lượng khu công nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam đã đạt 220 với quy mô lên đến 69.000 ha. 

“Có thể thấy có một sự thiếu cân bằng giữa cung và cầu của thị trường căn hộ dịch vụ. Riêng tại Hà Nội và các tỉnh lân cận đã có hơn 70 khu công nghiệp. Tuy vậy thị trường mới ghi nhận số dự án căn hộ dịch vụ hạn chế, với một vài thương hiệu điều hành quốc tế”, bà Hằng nói. Vị chuyên gia này cũng nhận định quy mô hiện tại của các thương hiệu tại Hà Nội chưa cho thấy mức độ phát triển của thị trường, chưa tương xứng với tiềm năng khi so sánh với quy mô trong khu vực và thế giới.

Bà cho biết, năm 1993 thương hiệu điều hành căn hộ dịch vụ quốc tế đầu tiên gia nhập vào thị trường Việt Nam. Đến nay đã hơn 20 năm, quy mô của các thương hiệu điều hành này vẫn rất hạn chế so với mạng lưới toàn cầu của họ. Ví dụ, số lượng căn hộ dịch vụ The Ascott Limited điều hành tại Hà Nội là 670 căn, tương đương với 1,5% danh mục 44.000 căn trên toàn thế giới. Frasers Hospitality ước tính đạt 30.000 căn vào năm 2019, trong đó Hà Nội mới ghi nhận một dự án với quy mô 184 căn. Thương hiệu Pan Pacific cũng mới quản lý một dự án tại Hà Nội với quy mô 56 căn, trong khi trên phạm vi toàn cầu, con số này là 12.000 tại 40 dự án. 

“Trong bối cảnh nguồn cầu tiếp tục tăng, tỷ lệ này cho thấy còn nhiều dư địa cho phân khúc căn hộ dịch vụ phát triển”, bà Hằng nhận định. 

Bà cũng đưa ra khuyến nghị, các chủ đầu tư cũng cần có sự linh hoạt trong chính sách cho thuê để sản phẩm này tận dụng được nguồn cầu về nơi ở của khách du lịch ngắn ngày, đặc biệt là khách quốc tế đang tăng trưởng rất tốt tại Việt Nam. Điều này sẽ giúp tối đa hóa công suất thuê căn hộ dịch vụ và doanh thu của dự án.

Nguyễn Hà